Hình dưới: Trang đầu bài viết gần 200 trang của Giáo Sư Ngô Bảo Châu, đăng trong mạng arXiv dành cho các bản thảo nghiên cứu khoa học, công trình được tạp chí Time xếp hạng 10 khám phá khoa học quan trọng nhất năm 2009. (Hình: Vũ Quí Hạo Nhiên/Người Việt)
Tạp chí Time nêu công trình của Giáo Sư Ngô Bảo Châu trong hàng Top 10 thế giới
NEW YORK (NV) – Công trình nghiên cứu của một giáo sư toán học người Việt Nam được tạp chí Time xếp vào danh sách 10 khám phá khoa học quan trọng nhất của thế giới năm 2009.
Giáo Sư Ngô Bảo Châu và bài chứng minh bổ đề cơ bản cho cấu trúc đại số Lie đứng hàng thứ 7 trong danh sách này. Bài chứng minh dài 191 trang được Giáo Sư Châu công bố năm 2008, nhưng được cho là phát minh của năm 2009 vì các nhà toán học khác kiểm soát lại và công nhận trong năm 2009.
Vào Tháng Bảy năm tới, Giáo Sư Ngô Bảo Châu sẽ là một trong những diễn giả chính (plenary speaker), thuyết trình trước toàn bộ hội nghị, tại hội nghị thế giới toán học (International Congress of Mathematicians) tổ chức tại Ấn Ðộ, theo lời Giáo Sư Lê Tự Quốc Thắng nói với báo Người Việt.
Báo Time viết về khám phá của Giáo Sư Ngô Bảo Châu trong bài viết với tựa đề “The Fundamental Lemma, Solved” – “Bổ đề căn bản, đã chứng minh,” như sau:
“Năm 1979, nhà toán học song tịch Canada-Mỹ Robert Langlands phát triển một lý thuyết rộng lớn để nối liên hai ngành toán học là lý thuyết số và lý thuyết nhóm. Trong một loạt những giả thiết và sáng kiến chói lọi, lý thuyết này bắt được những sự đối xứng trong các phương trình liên quan đến số nguyên.”
Lý thuyết này mang tên “chương trình Langlands.” Nếu chương trình này được hoàn thiện, hai ngành lý thuyết số và lý thuyết nhóm sẽ trở thành một, và khi giải được bài toán của ngành này thì giải được luôn một bài tương đương của ngành kia. Chương trình Langlands trở thành một thứ bảng chỉ đường để thống nhất toán học.
Ông Langlands và mọi người đều hiểu rằng chương trình Langlands chỉ là sườn bài, còn cần chứng minh. Nhưng ông cho rằng một bước mà cần chứng minh, được mang tên ‘bổ đề cơ bản’ (fundamental lemma), có thể chứng minh được sớm. Tuy nhiên, báo Time viết, “việc chứng minh trường hợp tổng quát hóa ra khó hơn so với Langlands dự tính – khó tới mức phải mất 30 năm mới thực hiện được.”
Vào năm 2003, Giáo Sư Ngô Bảo Châu cùng với người từng là giáo sư hướng dẫn của ông chứng minh được một phần của bổ đề cơ bản. Giáo Sư Châu và Giáo Sư Gerard Laumon chứng minh được bổ đề cơ bản cho unitaries group, tiếng Việt gọi là “nhóm unita.”
Với công trình này, năm 2004 hai Giáo Sư Châu và Laumon được trao giải thưởng Clay Research, một trong những giải thưởng lớn nhất thế giới dành cho ngành toán. Năm 2005, ở tuổi 33, Ngô Bảo Châu trở thành người trẻ tuổi nhất được phong danh hiệu “giáo sư” tại Việt Nam.
Vào Tháng Giêng, năm 2008, Giáo Sư Châu công bố phần chứng minh toàn bộ bổ đề cơ bản. Ông công bố bài viết bằng tiếng Pháp dài 191 trang dưới dạng bản thảo (prepublication) trên mạng arXiv.
Bản thảo được chỉnh sửa hai lần vào Tháng Hai và Tháng Năm, năm 2008. Bản cuối cùng dài 197 trang. Các nhà toán học thế giới mất tới năm 2009 mới hoàn thành việc kiểm lại bài viết.
Công trình này chính là công trình được tạp chí Time xếp vào hàng Top 10 khám phá khoa học trong năm 2009.
Giáo Sư Ngô Bảo Châu sinh năm 1972 tại Hà Nội. Cha ông là Giáo Sư Ngô Huy Cẩn, làm việc tại Viện Cơ Học, và mẹ ông là Giáo Sư Trần Lưu Vân Hiền, làm việc tại bệnh viện Y Học Cổ Truyền Trung Ương.
Năm 1988, đang học lớp 11, ông được tuyển vào đội tuyển học sinh giỏi đi thi Toán quốc tế tại Canberra, Úc, và đoạt huy chương vàng với số điểm tuyệt đối 42/42. Năm sau, lớp 12, ông lại trúng tuyển vào đội học sinh giỏi đi thi Toán quốc tế, năm đó tổ chức tại Braunschweig (Brunswick), Ðức, và lại một lần nữa đoạt huy chương vàng.
Về nước, ông được học bổng du học Hungary, nhưng cùng năm đó cuộc Cách mạng Nhung diễn ra, và nhà nước Hungary rút lại học bổng cho học sinh Việt Nam. Tuy nhiên, ông được nhận học bổng du học tại Pháp.
Năm 25 tuổi, giáo sư Châu tốt nghiệp tiến sĩ tại Ecole Normale Supérieure. Năm 31 tuổi, ông đậu bằng habilitation.
Ðầu năm 2004, ông bắt đầu dạy tại Ðại Học Paris-Sud XI. Ông hiện là thành viên Institute for Advanced Studies tại Ðại Học Princeton.
Trong danh sách 10 khám phá khoa học của năm 2009, tạp chí Time xếp hạng công trình của Giáo Sư Châu ở hàng số 7, ngay dưới số 6: tìm thấy nước trên mặt trăng, và ngay trên số 8: khám phá “teleportation” của các nhà vật lý Ðại Học Maryland, khi họ khiến cho một nguyên tử biến ra một bản sao của nó ở cách xa 1 mét.
.
***
.
Lý thuyết số, lý thuyết nhóm và thành tựu của giáo sư Ngô Bảo Châu:
Những ngành toán thuần túy với nhiều ứng dụng thực tế
Vũ Quí Hạo Nhiên/Người Việt
IRVINE (NV) – Thành tựu của Giáo Sư Ngô Bảo Châu là chứng minh được một bổ đề làm căn bản cho chương trình Langlands. Chương trình Langlands là một loạt những giả thuyết, tuy chưa được chứng minh nhưng ai cũng nghĩ là đúng, nối kết lý thuyết số với lý thuyết nhóm.
Giáo Sư Cấn Anh Minh, Ðại Học Irvine Valley College, nói chuyện với báo Người Việt và giải thích thế nào là lý thuyết số và lý thuyết nhóm, và những ứng dụng trong đời sống thực tế. Hai ngành toán học này có ứng dụng trong việc lập mật mã, phá mật mã, hóa học, vật lý, y học.
Lý thuyết số
“Lý thuyết số vốn là ngành nghiên cứu các phương trình có đáp số là số nguyên, nhưng nay có ứng dụng quan trọng nhất là việc chế tạo mật mã cho computer, cho email, và ngược lại là phá mật mã,” Giáo Sư Cấn Anh Minh nói.
“Lý thuyết số là ngành nghiên cứu số nguyên,” tức là những số như 1, 13, 1527, khác với số hữu tỷ (3/5, 7/13) hay vô tỷ (số pi), ông giải thích. Nhà toán học trong ngành lý thuyết số nghiên cứu mối quan hệ giữa các số nguyên, và trong đó quan trọng nhất là số nguyên tố.
Số nguyên tố, như 2, 3, 5, 7, 11, 13, v.v… là những số chỉ chia hết cho số 1 và chính nó. Số 9 không phải là số nguyên tố vì chia hết cho 3.
“Ngành lý thuyết số nghiên cứu mối quan hệ giữa các số, giữa các số nguyên tố, họ nghiên cứu các số này liên quan với nhau ra sao, khi cộng trừ nhân chia với nhau chuyện gì xảy ra,” Giáo Sư Minh cho biết.
Ông nói về ứng dụng của lý thuyết số, “Lúc đầu người ta dùng lý thuyết số để giải phương trình Diophantine. Ðó là những phương trình chỉ dùng số nguyên, và đáp số là số nguyên.”
Tuy nhiên, gần đây, “lý thuyết số được áp dụng để nghiên cứu cách tách một con số thật lớn ra thành hai số nguyên tố nhân lại.” Ông cho biết, “Nếu tách được số thật lớn như vậy, sẽ phá được mật mã. Ngược lại, nếu muốn không bị phá mật mã, phải tìm cách làm một con số như thế nào để người khác không tách ra được.”
Lý thuyết số, do đó, “là căn bản cho ngành mật mã,” Giáo Sư Minh cho biết.
Lý thuyết nhóm
Lý thuyết nhóm (tiếng Anh là group theory) là ngành nghiên cứu sự đối xứng, và có nhiều ứng dụng trong hóa học, trong vật lý, và trong việc chế tạo thuốc mới.
Giáo Sư Cấn Anh Minh giải thích, “Nhóm là tên gọi một loại cấu trúc trong đại số. Ðặc biệt nhóm là một loại cấu trúc có tính đối xứng, nên nghiên cứu nhóm là nghiên cứu về các cách đối xứng.”
Ông cho thí dụ, “Trong hóa học, thí dụ có phân tử nằm theo hình khối tam giác,” tức là như một kim tự tháp ba mặt. “Người ta muốn biết khi hình khối đó xoay hướng này hướng kia thì phân tử đó trở thành khác đi, và lý thuyết nhóm cho các nhà hóa học tiên liệu những chuyện này.”
“Lý thuyết nhóm cho phép người ta nghiên cứu các cách đối xứng trong không gian, từ không gian ba chiều, cho tới không gian bốn chiều hoặc nhiều hơn,” ông cho biết.
Vì vậy, lý thuyết nhóm cũng có ứng dụng trong vật lý. “Trong vật lý hạt nhân, các nhà vật lý nghiên cứu lý thuyết dây (string theory). Ðó chính là vật trong không gian đa chiều, và các cách xoay chiều và đối xứng của những ‘dây’ đó, là kết quả của lý thuyết nhóm.”
Trong y, dược học cũng có ứng dụng lý thuyết nhóm. “Cũng những phân tử đó, nếu nhà làm thuốc ghép theo hướng này hướng khác thì thuốc trở thành thuốc khác. Các nhà nghiên cứu dùng lý thuyết nhóm để tìm cách chế tạo thuốc mới.”