Archive for November, 2011

Vượt biên, bị cướp biển, thất lạc: Sau 34 năm cha & con đoàn tụ

Friday, November 25th, 2011

Vượt biên, bị cướp biển, thất lạc: Cha và con đoàn tụ
Ngọc Lan/Người Việt

Wednesday, November 23, 2011 7:24:29 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=140618&z=1

LTS. Ðối với người tị nạn Việt Nam, có lẽ chưa có câu chuyện nào cảm động bằng cuộc hội ngộ của hai cha con ông Trương Văn Hào, sau 34 năm xa cách. Khi biết tin, phóng viên nhật báo Người Việt đã liên lạc được với ông Hào và được ông kể lại câu chuyện sau đây. Nhân ngày Lễ Tạ Ơn năm nay, nhật báo Người Việt đăng câu chuyện này để độc giả cùng suy ngẫm.

ROCHESTER, New York (NV) -“Ngay khi vừa nhìn thấy nó, tôi cảm giác như mình vừa tìm lại được vật gì quý giá lắm mà mình đánh mất từ lâu, cảm giác như vậy đó cô.” Ông Trương Văn Hào, qua cuộc điện thoại lần thứ hai với phóng viên Người Việt vào lúc hơn 10 giờ đêm Thứ Hai, trước ngày Lễ Tạ Ơn, nhắc lại cảm xúc của ông, khi nhìn thấy đứa con trai bị thất lạc từ 34 năm trước.

Trong cuộc điện thoại này, ông Hào cho biết đứa con trai mới tìm lại được, lúc đó đang ở Thái Lan, vừa hoàn tất cuộc phỏng vấn xin chiếu khán nhập cảnh vào Mỹ và đã được chấp thuận, với sự can thiệp của Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ Chuck Schumer (Dân Chủ-New York).

Câu chuyện tái ngộ của cha con ông Trương Văn Hào và Samart Khumkham (tức Trương Văn Khai), một người ở Rochester, New York, và một người ở một tỉnh xa xôi của Thái Lan, một lần nữa vừa gợi lại những thời khắc đau thương của những ai từng là thuyền nhân. Ðồng thời, câu chuyện lại mở ra thêm hy vọng cho những cha mẹ từng bị mất con, làm cho niềm tin của họ mạnh thêm, với hy vọng, đến một lúc nào đó, may mắn sẽ mỉm cười với mình.

Câu chuyện của 34 năm trước

“Tôi cùng vợ và đứa con trai mới 6 tháng tuổi, tên Trương Văn Khai, rời đảo Phú Quốc ngày 22 Tháng Mười Hai, 1977.” Ông Hào chầm chậm kể lại câu chuyện của mình.

Sau năm ngày lênh đênh trên biển, khi còn cách Songkhla, Thái Lan, chừng 35 dặm thì tàu ông Hào “bị bể.” Cùng lúc đó, họ gặp một chiếc tàu đánh cá Thái Lan, “thế là chúng tôi lên hết trên chiếc tàu Thái, và ở đó bốn ngày.”

Theo lời ông, ngay từ khi lên tàu, thuyền trưởng của chiếc tàu đánh cá “đã tỏ ra rất thích thằng bé. Ông ta đòi mua nó, nhưng chúng tôi không đồng ý.” Ông Hào kể. Cũng chính từ chi tiết này, mà hơn ba thập niên trôi qua, ông Hào vẫn tin rằng con trai ông còn sống.

Mọi chuyện vẫn bình thường, tuy nhiên, đến tối ngày thứ tư, “sau khi người thuyền trưởng bỏ sang một chiếc tàu khác đi mất,” những người đàn ông Việt Nam bị những người Thái còn lại trên tàu bắt nhảy xuống biển.

“Tôi cùng một anh đi cùng cứ lênh đênh như vậy trên nước. Ðến khoảng 6 giờ chiều hôm sau thì chúng tôi mới được một chiếc tàu đánh cá vớt.” Ông Hào tiếp tục nói, “Tôi cũng không biết bằng cách nào mà tôi đã sống.”

Ông Hào ở lại trên chiếc tàu này làm việc khoảng hai tuần, “cũng kéo cào, lặt cá.” Sau đó, họ lái tàu vô gần bờ, thả ông xuống, để ông tự bơi vô bờ.

Ông Hào được cảnh sát Thái “đưa vào trại.”

“Chừng một, hai tuần sau thì có một người Thái gốc Việt đi vào trại báo tin cho biết dân địa phương vừa mới vớt được hai xác người đàn bà và đã chôn cất. Hỏi thì nghe mô tả quần áo rất giống với quần áo vợ tôi và vợ người bạn đi cùng. Trên chiếc tàu chúng tôi đi vượt biên chỉ có hai người phụ nữ thôi. Khi đó tôi xin ra ngoài để đi đến đó hỏi thăm nhưng họ không cho ai ra khỏi trại. Từ đó tôi không còn biết tin tức gì nữa.” Ông Hào nói một cách nặng nề.

Sau gần năm tháng ở trong trại, ông Hào được người thân bảo lãnh sang định cư tại Mỹ.

Hành trình tìm con

Tin chắc là vợ mình đã chết, nhưng “trong suốt thời gian qua, chưa bao giờ tôi nghĩ là con tôi chết. Tôi tin là nó còn sống và đang ở đâu đó.” Chính từ niềm tin mãnh liệt này, mà chừng năm, sáu năm sau khi đến Mỹ, ông Hào tìm đến Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ nhờ tìm kiếm con trai ông.

“Nhưng lần đó họ nói tôi không có đủ tin tức cần thiết, như không có hình ảnh, hay giấy tờ gì. Cái gì tôi cũng không có bởi vì bị mất hết rồi.”

Dù bận bịu với cuộc sống, lập gia đình mới, có con nhỏ, ý định tìm đứa con trai thất lạc vẫn lẩn quẩn trong tâm trí người cha. Chừng 10 năm sau, ông Hào lại đến Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ một lần nữa, “cũng làm đơn nhờ họ kiếm, nhưng rồi câu trả lời vẫn là như vậy.”

Ðến cuối Tháng Năm vừa rồi, “khi mới xong khóa học mùa Spring, tôi mua vé đi Thái Lan tìm con tôi.”
Và chuyến đi kéo dài một tháng này của người cha đã thật sự có kết quả.

Chặng thứ nhất

Ông Trương Văn Hào rời New York vào ngày cuối Tháng Năm để thực hiện cho bằng được, một lần, hết sức mình, việc tìm kiếm đứa con rời xa ông khi nó mới sáu tháng tuổi. Ông đi, mang theo trong lòng niềm tin của người cha về đứa con vẫn còn sống, và sự ủng hộ về tinh thần lẫn vật chất của người vợ hiện tại, cùng bốn đứa con thân yêu.

“Ba, con hy vọng là ba sẽ mang được anh Khai về, bằng hết sức của ba.” Người con trai út 10 tuổi của ông, nói với ông như vậy.

Ðầu Tháng Sáu, ông Hào đặt chân đến Bangkok khi trời đã về chiều. Sáng sớm hôm sau, ông bay đến Hat Yai, một thành phố phía Nam Thái Lan, cách Songkhla, nơi có trại tị nạn ông Hào từng ở cách đây 34 năm, khoảng một giờ lái xe.

Ông lưu lại ba ngày. “Trong ba ngày này, tôi đi tìm kiếm một ngôi nhà thờ.”

Người cha đang trong hành trình đi tìm con rõ ràng đã vạch sẵn cho mình kế hoạch tìm kiếm.

Ông nói, “Tôi nhớ ngày xưa ở tỉnh Songkhla có một vị linh mục thường đưa thư vô cho người tị nạn. Tôi không biết tên cha nhưng tôi nghĩ ông chỉ có thể ở lòng vòng quanh tỉnh Songkhla hay quanh quanh đâu đây thôi.”

Ðó chính là lý do vì sao ông Hào lại đi tìm nhà thờ. Tuy nhiên, khi đến nhà thờ, ông Hào được biết “vị linh mục tôi muốn tìm đã ngoài 80 tuổi, nghỉ hưu và về sống ở Bangkok.”

Thất vọng vì không tìm được vị linh mục, nhưng ông Hào lại được vị linh mục mới, hướng dẫn ông đến “gặp một nhóm thanh niên trẻ chuyên giúp đỡ những người tị nạn.”

Sau khi nghe chuyện ông Hào muốn tìm kiếm đứa con thất lạc, nhóm thanh niên này chở ông ngược lại Hat Yai để “quay phim đưa lên tin tức.”

Cũng thời gian này, ông Hào gọi điện thoại về Mỹ cho vợ ông biết ông gặp khá nhiều khó khăn trong vấn đề giao tiếp, bởi vì “càng đi về miền Nam, người ta càng ít biết nói tiếng Anh, và có nói thì cũng rất khó nghe.”

Nhờ vào bạn bè quen biết, vợ ông tìm được một người biết nói tiếng Việt lẫn tiếng Thái, đang ở Lào, bay sang Thái Lan để đi cùng ông Hào.

Chặng thứ hai

Ông Hào và người bạn Lào thuê xe “đi tìm nơi ngày xưa người ta chôn vợ tôi.”

“Chúng tôi lái xe dọc theo bờ biển hết hướng Nam rồi đến hướng Bắc, cứ đi đến đâu thấy có làng là dừng lại hỏi thăm nhưng chẳng được tin tức gì hết,” người đàn ông nhẫn nại kể, như thể hành trình đó vẫn còn mồn một trong ông.

Ông Hào cũng đến sở cảnh sát và các trụ sở của chính quyền địa phương để nhờ giúp đỡ. Có điều, “do nhiều vấn đề tế nhị, nên tôi không nêu ra trong đơn là ngày xưa chúng tôi bị giết, bị cướp, mà chỉ nói là tàu gặp nạn thôi.”

Không tìm được mộ người vợ chết thảm năm xưa, ông Hào và người bạn trở lại Hat Yai, đến những nhà xác tìm tin tức, nhờ lục lọi lại hồ sơ giấy tờ ngày xưa.

Cũng trong những ngày lang thang đi tìm tin tức này, ông Hào tình cờ được giới thiệu gặp một người đang làm việc tại một đài truyền hình ở Bangkok.

Ông kể, “Ðài truyền hình này xuống gặp chúng tôi, dàn xếp một cuộc phỏng vấn cảnh đi tìm con để quay phim. Rồi họ chiếu lên TV.”

Dấu vết đứa con vẫn còn mờ mịt thì người bạn biết tiếng Thái của ông Hảo phải quay trở về Lào vì công việc gia đình.

Một lần nữa, người cha này lại “cảm thấy bế tắc.”

Chặng thứ ba

Khi đó, ông Hào đã ở Thái Lan chừng hai tuần.

Ông bắt đầu ngồi xuống, viết lại câu chuyện tìm con, rồi đưa lên Google cho dịch ra tiếng Thái. Ông đưa cả hình ông và người vợ quá cố của mình vào, “để hy vọng hoặc con giống cha hoặc con giống má thì người ta có thể nhận ra.”

“Xong, tôi in ra khoảng 500 tờ. Vào mỗi đêm, tôi đến con đường đông người qua lại và phát cho người ta. Trong tờ rơi đó tôi có hứa tặng cho ai tìm được tin tức con tôi một số tiền.” Ông kể về việc làm của mình.

Ðồng thời, ông Hào cũng tìm gặp được một số người của tổ chức “giống như nhân viên xã hội” nhờ giúp đỡ. Bên cạnh những chi tiết ông Hào cung cấp cho “nhân viên xã hội,” ông còn nhớ thêm được chiếc tàu ngày xưa ông bị bắt lên cùng vợ con ông là “tàu số 21, nhưng không nhớ tên.”

Thời gian này, ông Hào lại quen biết với một người đàn ông Thái biết nói tiếng Anh. Qua người đàn ông này, ông Hào có dịp gặp gỡ một số người làm nghề lái tàu.

Từ những người lái tàu, ông lại biết thêm một điều: nơi có thể tìm được “chiếc tàu 21 ngày xưa.” Có điều, không phải là một nơi mà có thể tới ba địa điểm.

Ông Hào mang tin tức này nói cho “nhân viên xã hội” biết, và “họ hứa đưa tôi đi đến những nơi đó.”

Thế nhưng, chuyện đời luôn có những chuyện “thế nhưng” nghiệt ngã như thế.

“Khi đó gần đến ngày bầu cử, rồi có nơi thì có bạo loạn xảy ra, nên họ không chịu đi,” ông Hào nhớ lại.

Người ta không đi, nhưng ông không có lý do gì để không đi, “Tôi thì có sợ gì chết nữa nên tôi có ý định sẽ đi một mình.”

Lần lữa tìm đường đi, cũng là lúc chiếu khán nhập cảnh ở Thái Lan của ông Hào chỉ còn ba ngày là hết hạn.

Chặng thứ tư

“Khi thấy còn ba ngày nữa là hết hạn visa, tôi trở lại tìm những người nhân viên xã hội một lần nữa để đưa hết thông tin cho họ, báo cho họ biết là tôi đi về Mỹ, có tin gì thì họ báo cho tôi biết.” Ông Hào có ý định chấm dứt hành trình tìm kiếm đứa con, ở thời điểm này.

Không ngờ, lúc đó các nhân viên xã hội lại báo cho ông Hào biết rằng họ đã có tin tức của ông chủ vừa mua lại “chiếc tàu số 21.”

“Ngày 28 Tháng Sáu, tôi cùng hai người nhân viên xã hội đi gặp ông chủ tàu.”

Có điều, người cha xem như “mất hết hy vọng,” vì “đó không phải là chiếc tàu hồi xưa tôi lên.”

Nhưng.

Lại một chữ “nhưng” bất ngờ.

Trong thời gian mấy tiếng đồng hồ đi loanh quanh bến cảng để tìm kiếm “con tàu 21,” một thanh niên làm cho ông chủ tàu vô tình nghe được câu chuyện tìm con của ông Hào.

Theo lời thanh niên này thì ngày xưa xóm anh có một gia đình nuôi một đứa trẻ Việt Nam.

Ðể chắc chắn, thanh niên này gọi điện thoại hỏi người mẹ, và được trả lời là “đúng rồi.”

Tia sáng lại lóe lên.

Sáng hôm sau, ông Hào cùng bốn nhân viên xã hội, “có cả ông sếp của họ,” lên xe hướng về ngôi làng người thanh niên cho biết.

Chặng thứ năm

“Sau bốn tiếng lái xe, chúng tôi đến nơi thì được chính quyền ở đó xác nhận đúng là hồi trước có một gia đình nuôi một đứa con người Việt,” ông Hào tiếp tục câu chuyện dài mà dường như chẳng hề mệt mỏi.

“Một người dân địa phương khẳng định, ‘Thằng nhỏ nhà đó nhìn rất giống ông.’” Lời nói đó càng khiến niềm tin sẽ kiếm được đứa con trở nên tràn trề và mãnh liệt trong lòng người cha.

“Nhưng gia đình đó đã dọn đi khỏi đây từ 15 năm trước rồi.”

Như trò đùa của số phận, hy vọng vừa lóe lên thì vụt mất. Hạnh phúc như gần kề bàn tay thì lại vuột bay.

Nhưng ý chí con người đôi lúc vượt lên trên những định mệnh nghiệt ngã.

Với sự giúp đỡ của cảnh sát, của chính quyền địa phương, mọi người có được địa chỉ của gia đình có đứa con Việt.

“Khoảng hơn 5 giờ chiều, chúng tôi dồn lên xe van đi tiếp đến nơi cách đó chừng 6 tiếng.”

Theo lời ông Hào, trong suốt đoạn đường này, điện thoại của bốn nhân viên xã hội bận nói chuyện liên tục.

“Khi còn cách chừng hai tiếng nữa đến nơi, thì họ báo cho tôi biết là họ đã gọi báo cho báo chí, truyền hình hay tin hết rồi. Họ nói họ tin chắc rằng thằng bé đó chính là con tôi, 80% là con tôi.” Ông Hào cười, kể tiếp.

Lúc 11 giờ 47 phút đêm 29 Tháng Sáu, ông Hào đến được ngôi nhà của vợ chồng người Thái nuôi đứa con trai ông từ 34 năm qua.

Cũng lúc đó, xe của đài truyền hình, báo chí, cảnh sát địa phương đều có mặt, để ghi nhận lại cuộc hội ngộ không xảy ra quá nhiều trên cuộc đời này.

Giây phút gặp gỡ

Ông Hào nhớ lại thời khắc mà ông mong chờ từ 34 năm nay:

“Tôi thấy tim mình đập mạnh lắm, thấy nôn nao lắm. Trời thì tối, lại không có điện, chỉ có ánh sáng của một bóng đèn nhỏ từ trong nhà hắt ra, cùng ánh sáng của mấy xe truyền hình. Nhưng, chỉ nhìn dáng nó bước ra. Chỉ nhìn cái dáng nó thôi, là tôi đã nhận ra nó là con tôi rồi,” ông Hào kể.

Rồi ông nói tiếp: “Rồi khi tôi gặp mặt nó, là tự nhiên, tôi biết ngay là nó, là thằng con tôi.”

Người cha kể lại khoảnh khắc gặp con qua điện thoại, mà tôi nghe ra, gương mặt ông khóc, và miệng ông cười.

Không một lời nói nào thốt ra trong giây phút đó.

Chỉ có người cha ôm chầm lấy đứa con mình.

Họ không thể nói cùng một ngôn ngữ. Con chỉ nói được tiếng Thái. Cha chỉ nói được tiếng Việt, tiếng Anh.

Nhưng sợi dây máu mủ ràng buộc từ trong sâu thẳm, để người cha tin chắc đó là con mình, và đứa con rời khỏi vòng tay cha mẹ đẻ từ khi 6 tháng tuổi, cũng trong giây phút đó kêu thầm trong đầu, “I know you are my daddy.” (Con biết ba là ba của con mà), (Anh nói với ba mình điều này vài ngày sau thời điểm ấy).

Câu chuyện tiếp theo

Cho dù giây phút đó là thần tiên và diệu kỳ đến mức nào, ông Hào cũng chỉ có thể lưu lại đó hơn 2 tiếng đồng hồ, sau đó phải lên đường ngay để trở lại Songkhla, rồi trở về Malaysia để gia hạn chiếu khán nhập cảnh.

Một ngày sau, ông Hào quay trở lại nơi Khai đang sống, ở đó cùng con trai ông thêm một tháng nữa, trước khi bay về Mỹ chuẩn bị những thủ tục cần thiết cho chuyện gặp lại cả “đại gia đình” tại Hoa Kỳ.

Samart Khumkham, người con trai thất lạc ngày nào của ông Hào, giờ đã là người đàn ông 34 tuổi, có vợ và hai con gái, sống trên rừng cao su, “để làm công việc chăm sóc cao su cho chủ.”

Theo những gì ông Hào được biết, cha mẹ nuôi của Samart ngày xưa làm ở cảng tàu. “Khi đó, bà vợ sanh được một đứa con gái nhưng hai ngày sau thì em bé chết. Lúc đó có một người bồng thằng Khai tới hỏi có muốn nuôi không với điều kiện không được hỏi nguồn gốc từ đâu có thằng bé đó. Thế là vợ chồng họ nhận nuôi đến bây giờ.”

Ở họ, không có khoảng cách của sự xa lạ về tình cảm. “Chỉ qua ngày sau, khi tôi trở lại, là cảm giác như hai cha con đã biết đâu từ hồi nào rồi, cảm giác cha con rất rõ ràng. Nó cũng như vậy. Mấy đứa cháu cũng như đã quen biết mình từ đời nào, rất thân thiện, tự nhiên.”

Nhưng chuyện trò lúc đầu giữa cha con họ thật sự khó khăn.

“Tôi muốn nói gì với nó, tôi gõ ra rồi Google dịch ra tiếng Thái. Ngược lại, nó nói chuyện với tôi cũng bằng cách đó,” ông Hào kể lại kinh nghiệm giao tiếp giữa hai cha con ông một cách hóm hỉnh.

Tuy nhiên, đến thời điểm này, sau hơn ba tháng ông Hào cùng vợ, con và các cô chú nói chuyện với Samart hằng ngày qua skype, vốn tiếng Anh của Samart đã tiến bộ rõ rệt.

Câu chuyện trùng phùng của gia đình ông Trương Văn Hảo đánh động đến Thượng Nghị Sĩ Chuck Schumer.

Ngày 9 Tháng Mười Một, đích thân vị thượng nghị sĩ Dân Chủ, đại diện tiểu bang New York, gọi điện thoại cho đại sứ Mỹ tại Bangkok, bà Kristie Kenney, yêu cầu cấp chiếu khán cho Khai nhập cảnh Hoa Kỳ.

“Ðây là một câu chuyện rất hay, đáng được in thành sách,” ông Schumer nói, theo một thông cáo báo chí của văn phòng ông. “Samart và gia đình của anh bị chia ly quá lâu, và thủ tục hành chánh không nên là một sự cản trở cho cuộc hội ngộ có một không hai trong cuộc đời họ. Tôi yêu cầu bà đại sứ bằng mọi cách có thể, giúp Samart nhập cảnh và gặp gia đình anh.”

Sáng Thứ Hai, 14 Tháng Mười Một, từ Thái Lan, Samart Khumkham, tức Trương Văn Khai ngày nào, được chấp thuận cho nhập cảnh vào Mỹ với chiếu khán du lịch B-2 với thời hạn bốn tháng.

“Họ sẽ gửi visa về nhà. Chỉ trong một vài ngày nữa, con tôi sẽ nhận được. Khi đó, tôi sẽ mua vé máy bay cho nó sang Mỹ. Tôi hy vọng nó sẽ đến đây trước ngày lễ Thanksggiving.” Ông Hảo hớn hở nói.

Hôm Thứ Hai, 21 Tháng Mười Một, Samart Khumkham đến phi trường quốc tế Greater Rochester International Airport ở Chili, New York, hội ngộ với gia đình.

Bà Phương Lê, người vợ hiện tại và cũng là người đã sát cánh cùng ông Hào trong hành trình tìm đứa con bị thất lạc, nói với nhật báo Người Việt về giây phút chứng kiến sự gặp gỡ của hai cha con, “Không thể diễn tả được. Chỉ biết là nước mắt tôi chảy xuống khi chứng kiến cuộc trùng phùng này. Tôi cảm thấy quá xúc động.”

“Tôi rất hạnh phúc khi thấy ước nguyện của chồng tôi đã thành sự thật. Ðây là điều mà anh ấy đã trăn trở và ấp ủ từ mấy mươi năm nay. Tôi mừng cho chồng tôi vì những công sức anh ấy bỏ ra đã được ơn trên nhìn thấy và đền bù xứng đáng.” Bà Phương nói thêm.

Và như vậy, mùa Lễ Tạ Ơn năm nay, có lẽ sẽ là mùa lễ đẹp nhất với gia đình ông Hào, đặc biệt là với hai cha con ông, sau 34 năm bặt tin.
––
Liên lạc tác giả: NgocLan@nguoi-viet.com
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=140614&z=177

.

Magic,Quá tài,quá tài…..

Thursday, November 24th, 2011

Ngân hàng châu Âu kêu gọi có hành động

Wednesday, November 23rd, 2011

Tân Thống đốc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), ông Mario Draghi, kêu gọi có “hành động khẩn cấp” để thực thi quỹ cứu trợ tài chính mới cho khu vực đồng euro.

(Tân Thống đốc Ngân hàng trung ương châu Âu, ông Mario Draghi, kêu gọi phải có hành động nhanh chóng)

Nhận định của ông được đưa ra vào khi Quốc hội Ý đã chấp thuận tân chính phủ mới tại nước này dưới sự lãnh đạo của kinh tế gia Mario Monti.

Chính phủ Hy Lạp cũng công bố kế hoạch ngân sách của họ cho năm 2012.

Sau một tuần đầy biến động, các thị trường vẫn trong tình trạng lo ngại trước những diễn biến về các chỉ số chứng khoán cho thấy mức giao dịch hỗn tạp.

Tới đầu giờ chiều ngày thứ Sáu, chỉ số Dow Jones ở New York đã tăng 0,4% sau những lo ngại về khu vực đồng tiền chung châu Âu đã khiến làm chỉ số này giảm mạnh vào hôm thứ Năm.

Tuy nhiên thị trường Mỹ và châu Âu vẫn giảm hoặc không thay đổi vì các nhà đầu tư đợi xem các diễn tiến chính trị mới nhất sẽ ảnh hưởng ra sao tới các nỗ lực nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng trong khu vực đồng euro.

Thị trường trái phiếu – vốn là thị trường hình thành giá chi phí vay cho các chính phủ – cũng bình ổn hơn, với lãi suất cho các khoản nợ của chính phủ Ý và Tây Ban Nha đã giảm nhẹ.

Kêu gọi có hành động

Phát biểu tại Frankfurt, ông Draghi bày tỏ thái độ không còn kiên nhẫn được vì tình trạng không có những tiến triển từ phía các nhà lãnh đạo châu Âu.

“Việc thực thi các quyết định đã có từ lâu này đâu rồi? Chúng ta không nên chờ đợi thêm chút nào nữa,”ông phát biểu tại Hội nghị Ngân hàng châu Âu vào hôm thứ Sáu.

Trong bài phát biểu của mình, ông Draghi gợi ý rằng công việc chính của ECB vẫn là phải đảm bảo duy trì dài hạn mức lạm phát thấp.

“Mức độ tín nhiệm có nghĩa là chính sách tiền tệ của chúng ta thành công trong việc giữ được kỳ vọng lạm phát ở mức trung và dài hạn,” ông nói.

Ông kêu gọi các chính phủ hãy đóng vai trò của họ trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng nợ thông qua ” cải cách cơ cấu và tài chính công vững chắc” cũng như các cải cách đối với cách thức hoạt động trong khu vực đồng tiền chung châu Âu.

Các nhà đầu tư và ECB đang chờ đợi chi tiết liệu kích cỡ của quỹ cứu trợ tài chính khu vực đồng euro – gọi là Quỹ ổn định tài chính châu Âu – sẽ được tăng lên tới 1 tỷ euro (tương đương 1,3 tỷ đô la Mỹ) bằng cách nào.

Trái phiếu sụt giảm

Trong khi đó, các thương gia nhìn vào Ngân hàng trung ương để đảm bảo chi phí vay nợ của Ý và Tây Ban Nha không tăng quá cao.

Nếu lãi suất của các khoản nợ của Ý và Tây Ban Nha trở nên quá cao thì việc trả nợ của họ có thể trở thành không bền vững, gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế.

Sự can thiệp mà tin tức nói tới của Ngân hàng trung ương châu Âu mua trái phiếu chính phủ của Ý và Tây Ban Nha vào hôm thứ Sáu đã giúp giữ lãi suất trái phiếu không tăng thêm nữa.

Hồi đầu giờ chiều trái phiếu 10-năm của Tây Ban Nha tăng 6,35% trong khi lãi suất trái phiếu 10 năm của Ý tăng 6,67%.

Hôm thứ năm, chi phí vay của Tây Ban Nha tại một phiên đấu giá trái phiếu 10 năm là gần 7%, một mức được coi là không bền vững.

Tây Ban Nha hiện đang chuẩn bị cho một cuộc tổng tuyển cử mà người ta cho rằng ​​sẽ báo trước có sự thay đổi trong chính phủ.

Ở Ý, tân Thủ tướng Mario Monti thắng trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại cả hai viện của Quốc hội phê chuẩn chính phủ mới của ông bao gồm cả các nhân vật làm việc trong ngân hàng, các Giám đốc điều hành và các giáo sư đại học.

Tại Hy Lạp, chính phủ của cựu giám đốc ngân hàng trung ương, ông Lucas Papademos, đã thông qua ngân sách đầu tiên đầy hứa hẹn giảm thâm hụt mà không cần thêm các biện pháp thắt lưng buộc bụng hơn nữa.

Vai trò của ECB

Trước đó trong tuần, người đứng đầu ngân hàng Bundesbank, Ngân hàng trung ương Đức, vốn chính thức trực thuộc Ngân hàng Trung ương châu Âu – đã công khai phản đối việc ECB giải cứu cho hai nước Italy và Tây Ban Nha đang gặp khó khăn.

Thủ tướng Đức, bà Angela Merkel, nhắc lại quan điểm đó vào hôm thứ Năm: “Nếu các chính trị gia cho rằng ECB có thể giải quyết cuộc khủng hoảng đồng euro, thì họ đã nhầm”.

Phát biểu của ông Draghi dường như hỗ trợ cho quan điểm đó của bà Merkel.

Nhiều nhà phân tích tin rằng để ngăn chặn tình trạng lây lan trong khu vực đồng euro, ECB nên hành động như “người cho vay cuối cùng” và cam kết mua không giới hạn số lượng nợ của Ý và Tây Ban Nha, thay vì các biện pháp can thiệp có giới hạn mà họ cho đến nay đang thực hiện.

Pháp, với mức xếp hạng tín dụng AAA cũng đang bị áp lực, vừa kêu gọi ECB phải hành động mạnh mẽ hơn.

Nhon Nguyen – Theo BBC News

IMF cảnh báo khu vực ngân hàng TQ

Wednesday, November 23rd, 2011

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cảnh báo rằng hệ thống tài chính của Trung Quốc “đối mặt với thực trạng dễ bị sốc đang ngày càng tăng”.

(Cổ phiếu một số ngân hàng TQ hạ do giới đầu tư mất niềm tin.)
Trong một nghiên cứu, phát hành công khai vào ngày Thứ ba, IMF cho rằng các ngân hàng tại Trung Quốc đủ mạnh để chịu được cú sốc đơn lẻ nhưng không đủ mạnh để chịu rủi ro tích hợp từ các vấn đề của tín dụng, bất động sản và tiền tệ.

IMF đã kêu gọi cải cách, bao gồm cả việc cho phép các ngân hàng phải dựa nhiều hơn vào cơ chế thị trường như lãi suất.

“Khu vực ngân hàng và tài chính của Trung Quốc là lành mạnh, nhưng có những lỗ hổng cần được nhà chức trách giải quyết”, ông Jonathan Fiechter, trưởng nhóm nghiên cứu của IMF tiến hành cho biết.

IMF đã khuyến cáo chính phủ Trung Quốc giảm bớt vai trò trong hệ thống ngân hàng, và để quyết định cho vay phải dựa vào các mục tiêu thương mại.

Hệ thống ngân hàng hiện tại ở Trung Quốc đã khuyến khích đầu tư quá mức và gây hiện tượng bong bóng tài sản, IMF cho biết.

“Trong khi cấu trúc hiện nay đẩy mạnh nhu cầu gửi tiết kiệm cao và mức thanh khoản cao, nó cũng tạo ra nguy cơ phân bổ sai vốn và hình thành thực trạng bong bóng, đặc biệt là bất động sản,” ông Fiechter nói.

Bản nghiên cứu nói rằng điều này đã dẫn đến “hiệu quả đầu tư thấp”.

Kể từ năm 2001, Trung Quốc đã đầu tư cao hơn 40% cho mỗi 1 đôla để tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước so với Nhật Bản và Nam Hàn trong cùng giai đoạn phát triển, nghiên cứu cho hay.

Đây là báo cáo đầu tiên trong Chương trình đánh giá khu vực tài chính mà IMF tiến hành cùng với Ngân hàng Thế giới.

Trung Quốc là một trong 25 nền kinh tế lớn đồng ý tham gia đánh giá bắt buộc ít nhất năm năm một lần.

IMF, cùng với chính quyền Trung Quốc, tiến hành kiểm tra khả năng chịu được sốc của 17 ngân hàng thương mại trong nước.

BBC News- London

Đình chỉ hãng taxi ‘bắt chẹt khách Interpol’

Wednesday, November 23rd, 2011

Hãng taxi Phú Gia có tài xế bị cáo buộc bắt chẹt hai khách Singapore tham dự hội nghị Interpol vừa bị đình chỉ hoạt động.

(Lần đầu tiên Việt Nam tổ chức cuộc họp của Interpol)

Trước đó, công an Việt Nam đã bắt giữ tài xế Phạm Văn Xâm, 22 tuổi, vì bắt chẹt hai vị khách tới 6 triệu đồng cho quãng đường có 10 km.
Tuy tài xế này được nói mới chỉ làm việc cho hãng Phú Gia vài tháng và giám đốc hãng đã ngỏ lời xin lỗi người bị hại, nhưng công ty taxi đã bị thanh tra và kỷ luật.

Thanh tra Bộ Giao thông-Vận tải nói Công ty TNHH Phú Gia không đăng ký logo và màu sơn xe. Dù có 14 xe nhưng Phú Gia chỉ sở hữu 4 xe, còn lại đi thuê, quản lý lỏng lẻo gây nhiều sai phạm.

Hiện chưa rõ Phú Gia sẽ bị đình chỉ trong bao lâu.

Bộ Giao thông-Vận tải có kế hoạch tiếp tục các hãng taxi khác trong thành phố.
Vụ việc gây ảnh hưởng hình ảnh Việt Nam

Tối 28/10, hai đại biểu Singapore lên xe taxi của ông Xâm để đi từ một quán phở đường Phan Bội Châu về lại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình.

Ông Phạm Văn Xâm được nói là đã đòi 200 đôla Mỹ, 80 đôla Hong Kong cho quãng đường ngắn này, và còn lấy điện thoại iPhone 4 của một trong hai vị khách.

Ông đã bị gần 10 cảnh sát của cả Bộ Công an và thành phố Hà Nội bắt giữ chiều 6/11 tại Đắk Nông để điều tra về hành vi trộm cắp tài sản và chiếm giữ trái phép tài sản của người khác.

Cuộc điều tra trở thành quy mô vì nhiều người trong chính quyền xem đây là việc làm “gây mất thể diện quốc gia”.

Lần đầu tiên Việt Nam đăng cai cuộc họp Đại hội đồng Cảnh sát Hình sự Quốc tế Interpol kéo dài từ 31/10 đến 4/11.
BBC News

VN vay Nga 8 tỉ đôla cho điện hạt nhân

Wednesday, November 23rd, 2011

Việt Nam ký thỏa thuận vay 8 tỉ đôla từ Nga để giúp xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên.


(Hai nhà máy đầu tiên ở Ninh Thuận sẽ do Nga và Nhật xây)
Hãng tin Dow Jones cho biết đại diện bộ tài chính hai nước hôm nay đã ký văn bản tại Hà Nội.

Ông Phan Minh Tuấn, Trưởng ban Chuẩn bị đầu tư Dự án Điện hạt nhân và năng lượng tái tạo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), cho hay khoản tiền đầu tiên sẽ được giải ngân năm 2014.

Trong khi đó, theo trang tin Chính phủ Việt Nam, tại một cuộc họp ngày hôm nay, Việt Nam “đánh giá cao việc ký kết Hiệp định về việc LB Nga cung cấp tín dụng cho Việt Nam xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, cũng như việc Nga sẽ tài trợ chi phí lập Báo cáo khả thi cho Dự án quan trọng này”.

Nhưng trang web Chính phủ Việt Nam không nói rõ số tiền là bao nhiêu.

Phó Thủ tướng thứ nhất của Nga, Igor Ivanovic Suvalov, hiện đang thăm Việt Nam và dự cuộc gặp hai Đồng Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam – Liên bang Nga.

Hồi tháng Chín, công ty Japan Atomic Power ký hợp đồng với EVN cho một báo cáo khả thi tương tự đối với nhà máy điện hạt nhân thứ hai ở Ninh Thuận – dự kiến sẽ sử dụng công nghệ Nhật.

Chính phủ Việt Nam dự định có 13 lò phản ứng ở tám nhà máy với tổng công suất 15,000 megawatt vào năm 2030.

BBC News

Hình ảnh mới nhất của thầy Hối – Nhuận, Dung

Wednesday, November 16th, 2011

Hình ảnh mới nhất của thầy Hối – Nhuận, Dung

Cõi Vô Hình

Monday, November 7th, 2011

Đã đọc nhiều bài về thế giới bên kia hay cõi vô hình, nhưng thấy bài này hay và có lý nhất.
Khi chết nên hỏa thiêu xác và không nên quyến luyến quá để người mất chóng được siêu thoát.

Bài hơi dài nhưng dù tin hay không tin cũng nên đọc cho hết bài  để còn suy gẫm những điều giảng hợp lý hay không hợp lý của vị Pháp sư này (Ông đã tốt nghiệp Tiến sĩ Vật lý ở Đại học Oxford)

Cõi Vô Hình

Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi.

Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập.

Giáo sư Evans-Wentz vào đề :

– Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…

Pháp sư thản nhiên :

– Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.

– Như thế ông tin rằng có ma…

Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết :

– Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi.

– Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ?

– Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng ?

– Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên …

– Được lắm, các ông hãy nhìn đây.

Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả :

– Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.

Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư Mortimer nóng nảy :

– Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?

Vị pháp sư nghiêm giọng :

– Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi này.

– Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.

Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ?

Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người :

– Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford …

Giáo sư Harding giật mình kêu lên :

– Oxford ư ? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ?

– Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.

(Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lý).

– Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ?

– Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.

Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng :

– Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ?

– Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…

– Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không ?

– Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng…..

– Như thế có nguy hiểm không?

– Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa….

– Ông có thể làm như vậy không ?

Vị pháp sư nghiêm mặt :

– Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.

– Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.

– Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau. Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dụcvọng hành hạ mà không thể thỏa mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không so thỏa mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu. Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v…v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên vu vơ nhằm thỏa mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm. Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ, v…v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v…v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện diện của những “hình tư tưởng”. Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngaỵ Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông tạ Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến. Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán. Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưỏong lẫn nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay quốc gia. Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ nhàng. Tại đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảm đục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại. Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ nhị không còn dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nhigệm, phát triển ccác đức tính riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn.

– Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao nhiêu lâu ?

– Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng.

Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học.

Hamud mỉm cười tiếp tục :

– Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ. Khi còn sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thỏa mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của tạ Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh. Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ? Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm. Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị Ở cõi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn.

– Nhưng còn các ma quỷ thì sao?

– Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng…Khoan đã, các ông hãy xem kìa, người bạn của tôi đã làm xong việc.

Hamud chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình từ lúc nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích :

– Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông thì còn ai nữa ?

Qủa thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng , rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ, so với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai muạ Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.

Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc :

– Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao?

– Tôi không phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn. Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có thật, vì một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả. Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết. Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi. Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngaỵ Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ dàng.

Giáo sư Allen ngập ngừng :

– Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ?

Hamud lắc đầu :

– Đó là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột ngột được. Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển. Một người tu thân là một người biết mình, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không còn được thỏa mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được.

– Như ông đã nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thỏa mãn không ?

– Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thỏa mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thỏa mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm.

– Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ?

– Sự hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách đang tan rã, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần. Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử ‘dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. Vì đang tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không hiểu thì gọi đó là ma. Theo sự hiểu biết của tôi, thì việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều.

– Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xã hội ?

– Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng, “Chính cái dục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.”

– Số phận của những người quân nhân tử trận thì ra sao ?

– Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, vì cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã quên mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những kẻ giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn.

– Như ông nói thì người chết vẫn thấy người sống ?

– Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì các giác quan thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm liên hệ; mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng ta. Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả.

– Như vậy thì họ ở gần hay ở xa chúng ta ?

– Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ.

– Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ?

– Điều này không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát. Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ ở trong. Sự thu xếp này ấn định cõi giới nào vong linh sẽ đến.

– Ông du hành sang cõi âm thế nào ?

– Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cõi âm. Quan niệm về không gian cũng khác vì đây là cõi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể xác.

– Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ?

– Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm, dục vọng mà họ hành động. Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý đến ông. Họ tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết. Tôi đã gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp. Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những người bén mảng đến gần nơi chốn dấu. Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa; họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm gì được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức đau khổ. Hãy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y không tin mình đã chết, nên cứ ở trong tình trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn mê, nên y không nhìn thấy cõi âm, mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao trở về được. Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi, và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc mình đã chết và siêu thoát…

– Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sao ?

– Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi , vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một hình thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”.

– Như ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ?

– Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm.

– Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không ?

– Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như được một vé phi cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc thì sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ? Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp, thì tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đình nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước khi lìa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử . Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi thì sự hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến việc này.

– Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ gì ?

– Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một vòng tròn mà sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm, dương, giữa thế giới hữu hình và vô hình. Trên con đường tiến hoá, còn hằng ha sa số các chu ký, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi thượng giới cũng phải qua cõi trung giới. Phần ở cõi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến sâu vào cõi trần và bắt đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có ý hướng về tâm linh. Các cổ thư đã vạch ra một đời sống ở cõi trần như sau : 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đình, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người Á châu thì 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ hưởng . Do đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt. Theo ý tôi, chính vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con người gây nhiều tai hại ở cõi trần. Chính vì không nhìn rõ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi trần đối với toàn kiếp người, thì không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lãng các cõi trên. Nếu con người hiểu rằng quãng đời ở cõi trần rất ngắn ngủi, đối với trọn kiếp người và đời sống các cõi khác còn gần với chân lý, sự thật hơn thì có thể họ đã hành động khác đi chăng ? Có lẽ vì quá tin tưởng vào giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cõi khác là không có…

– Nhưng nếu ông cho rằng các cõi kia còn gần với sự thật hơn, thì tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cõi trần làm gì ? Tại sao không rũ nhau đi sang cõi khác có tốt hơn không ?

Hamud mỉm cười :

– Tuy cõi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì con người chỉ có thể tìm hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động ở cõi trên.

Dòng nhạc gợi nhơ’… (Click một cài nghe cả ngàn bản)

Sunday, November 6th, 2011

Cụ 92 tuổi bị cấm mua rượu vì ‘không đủ già’

Saturday, November 5th, 2011

Một cụ bà 92 tuổi đã bị từ chối bán một chai rượu whisky chỉ bởi vì bà không thể chứng minh được mình trên 18 tuổi.


Photo: Google
Cụ bà Diane Taylor, thuộc thị trấn Harlow, hạt Essex ở Vương quốc Anh, ban đầu tin rằng nhân viên thu ngân tại cửa hàng One Stop trêu đùa bà, khi hỏi giấy chứng minh nhân dân của bà cụ.

Tuy nhiên, sau khi nhận ra nữ nhân viên phục vụ tỏ vẻ nghiêm trọng, cụ bà này đã không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tìm giấy tờ chứng minh tuổi tác của mình: thẻ hưu trí, thẻ xe buýt, thẻ hiến máu và thậm chí cả máy trợ tim của bà cụ đã được xuất trình.

Tuy nhiên không một loại giấy tờ nào ghi rõ ngày tháng năm sinh của bà cụ và bà già không may này đã không mua được chai whisky cho người con trai của mình.

Phát biểu với tờ nhật báo Harlow Star số ra ngày hôm qua, bà cho biết : “Tôi đang rất vội và cô ta đã làm tôi sửng sốt khi yêu cầu tôi cho xem chứng minh thư (ID).

“Khi tôi hỏi cô ấy chính xác cô ấy muốn gì, cô ta bảo là muốn giấy tờ chứng minh tuổi tác của tôi. Tuy nhiên tôi không có hộ chiếu hay giấy phép lái xe, đó là những gì họ đã yêu cầu tôi làm.”

Sau sự việc trên, một người phát ngôn của cửa hàng đã cho biết rằng họ buộc phải kiểm tra căn cước nếu không muốn có nguy cơ mất giấy phép, bất kể khách hàng trông ra sao.

Ông này cho biết : “Chúng tôi rất xin lỗi vì sự bất tiện kể trên, nhưng nhân viên tại cửa hàng buộc phải yêu cầu tất cả các khách hàng xuất trình giấy chứng minh như một điều kiện bắt buộc để được bán rượu.”

“Tôi đồng ý 101% khi họ kiểm tra các thanh niên trẻ tuổi tuy nhiên áp dụng điều này một cách rộng rãi đối với những độ tuổi cao hơn thì nó rất lố bịch”, bà Taylor nói.

Source:VnE

Huế lại lụt sâu

Saturday, November 5th, 2011

9h sáng 5/11, mưa lớn ở thượng nguồn khiến nhiều tuyến đường ở thành phố Huế và vùng dân cư các huyện Quảng Điền, Phú Vang bị ngập sâu, giao thông bị chia cắt.


Trong vòng 24 giờ, lượng mưa tại Thừa Thiên Huế đạt 600 mm, nhiều tuyến phố vùng hạ lưu bị ngập nặng. Nguyên nhân là mưa lớn ở thượng nguồn khiến mực nước đổ về vùng hạ lưu, gây ngập cục bộ.

Tuyến đường Bạch Đằng, phường Phú Cát ngập sâu. Các tuyến phố Hùng Vương, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tùng Mậu cũng trong tình trạng tương tự, mọi sinh hoạt đi lại của người dân gặp nhiều khó khăn.


Hàng trăm phương tiện bị chết máy dọc đường. Người dân phải dắt bộ xe tìm quán sửa.

Thuyền du lịch được thông báo tổ chức neo đậu vào bờ sông Hương đề phòng lũ lên nhanh.

Nhiều trường học trên địa bàn thành phố Huế bất ngờ bị ngập sâu.

Nhiều chuyến đò phía hạ lưu sông Hương chở thẳng khách theo sông Đông Ba để lên thành phố vì vùng hạ lưu sông bị ngập nặng.

Đoạn qua cầu Lòn (đường Bùi Thị Xuân).

Hai vị khách nước ngoài đạp xe đi “tham quan” lụt ở Huế.

Nhiều người đã mang thuyền nhỏ ra để vận chuyện khách.

Mực nước ở sông Hương đang ở mức xấp xỉ báo động 3.

Source: VnE

Cuộc cách mạng trên không gian ảo

Saturday, November 5th, 2011

Thoáng nhìn qua, chùa Long Tuyền tọa ở chân một ngọn núi ngay ngoại ô Bắc Kinh khó có thể là nơi tìm kiếm dấu ấn của thế giới hiện đại.

Hơn một nghìn năm nay, hành lang và sân chùa phủ mùi hương trầm vốn vẫn là nơi mà các nhà sư Phật giáo thực hiện những nghi lễ phức tạp.

(Giới Phật tử tỏ ra sẵn sàng tiếp nhận điều mới)
Nhưng ngôi chùa này đang trải qua giai đoạn phục hưng bằng một công cụ công nghệ cao: internet. Vị sư trụ trì thậm chí còn có riêng một trang blog.

Sư thầy Tiết Thành chỉ là một trong số hai trăm triệu người có trang cá nhân trên Weibo, dịch vụ ứng dụng microblog nổi tiếng nhất Trung Quốc, của công ty internet Sina.

Điều này tạo ra sự thay đổi cơ bản trong cách con người giao tiếp với nhau, mang đến cơ hội chia sẻ thông tin và bộc lộ ý kiến.

Microblog thậm chí còn có thể biến đổi Trung Quốc – và các nhà lãnh đạo của đất nước này biết rõ điều đó. Vì thế, họ đang bàn cãi xem làm sao kiểm soát được cuộc cách mạng này.
‘Chào đón những điều mới’

Microblog đã và đang bùng nổ ở Trung Quốc trong vòng vài năm trở lại đây. Twitter bị cấm, nhưng những ứng dụng ‘tự tạo’ thay thế lan tràn.

Giống như Twitter, mỗi tin chỉ được hạn chế trong 140 chữ, mặc dù người dùng có thể biểu đạt nhiều hơn với chữ tượng hình của Trung Quốc so với các chữ cái tiếng Anh.

Các trang blog của Trung Quốc cũng cho phép người sử dụng post ảnh và tài liệu, làm tăng thêm khả năng trao đổi thông tin.

Thành phần xã hội sử dụng ứng dụng này là vô kể: đạo diễn phim, vận động viên, người dẫn chương trình truyền hình, và tất nhiên, cả những người bình thường.

Giống như bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, họ sử dụng trang này để nói về tất cả mọi thứ, phần lớn là những chuyện tầm phào, một số chuyện khác nghiêm chỉnh hơn.

Sư thầy Tiết Thành nói rằng, trang blog của ông cho thấy “Phật tử có khả năng tiếp nhận những điều mới mẻ.”


(Các nhân vật vận động dân chủ như bà Vương đang có thêm công cụ để đấu tranh)
Trang của ông thường xuyên cập nhật thông tin về các hoạt động của chùa Long Tuyền và những câu nói liên quan đến tư tưởng đạo Phật.

“Một người hạnh phúc không phải vì anh ta sở hữu thật nhiều thứ, mà bởi đối với anh ta, chỉ một vài thứ là thật sự quan trọng”, đây là một trong những câu nói của nhà sư được đưa lên gần đây.

Những tin nhắn ngắn gọn lan tràn trên các trang blog trở thành vũ khí cho các nhà hoạt động Trung Quốc để đấu tranh chống lại nhà nước.

Thông tin về các cuộc biểu tình, các kiến nghị và các cuộc khủng bố chính phủ đang được rì rào bàn tán trên mạng.

Người đã từng tham gia rất nhiều chiến dịch vận động, nay đã nghỉ hưu, Vương Lệ Hồng nhận thấy giá trị của phương tiện truyền thông mới này, đang sử dụng nó để hỗ trợ cho công việc của mình. Bà giúp những người bất đồng với chính phủ.

Các nhà chức trách đã ‘làm việc’ với bà, kết án người phụ nữ 56 tuổi này chín tháng tù trong một phiên tòa ở Bắc Kinh vào tháng Chín vừa rồi. Bà bị buộc tội ‘gây rối’.

Nhưng thông điệp của bà thì khó bị dìm tiếng hơn. Khi đang bị dẫn đi, bà nói với con trai của mình là Tề Kiến Tường rằng, hãy nhớ đến bà trên internet.

Câu nói của bà đã được cập nhật lên blog trước khi bà rời phòng xử án.
Cần suy nghĩ?

Người Trung Quốc nhận thấy những trang blog kết nối với nhau mang tới sức mạnh mới để truy cập thông tin và thể hiện quan điểm riêng của mình.

Đây là thứ tự do mà họ hiếm khi có được trong hơn sáu mươi năm qua, kể từ khi đảng Cộng Sản Trung Quốc cầm quyền.

Tôi dùng Weibo của chính mình để hỏi xem mọi người nghĩ sao về việc microblog làm thay đổi Trung Quốc.

Câu trả lời đầu tiên là một biểu tượng đơn giản, hình một khuôn mặt với bị băng dính dán miệng. Thỉnh thoảng, cái băng dính này rơi ra và miệng lại mở ra, như đang nói. Ẩn ý ở đây khá rõ ràng.

Một người khác lại viết: “Microblog nghĩa là mọi người đã dám nói – và có thể nói. Tất cả thay đổi khi mọi người bắt đầu nói lên sự thật.”

Một người đàn ông tên Lý Khai Phúc hiểu rất rõ sức mạnh của microblogs. Ông đã từng là chủ tịch của Google ở Trung Quốc và là tác giả của một cuốn sách viết về hiện tượng xã hội này.
Ông nói microblog có khả năng thay đổi cách Trung Quốc trị dân, và ít nhất là sẽ khiến cho Chủ tịch đảng Cộng sản phải ‘băn khoăn’.

Đây chính là điều họ đang làm.

Họ muốn kiểm soát dòng thông tin thông qua những kênh truyền thông truyền thống để định hướng suy nghĩ của người dân – một trong những phương tiện đảm bảo quyền lực.

Những tin nhắn tức thời của microblog lại ngầm phá sự kiểm soát đó.

Để đáp lời, nhà nước bắt đầu kiểm duyệt nội dung của microblog, cũng như điều họ vẫn làm với các ứng dụng internet khác. Điều này cũng khiến các nhà chức trách lập nên các trang cá nhân, để trực tiếp xuất hiện trước công chúng.

Lúc này, họ đe dọa những ai mà họ cho là lạm dụng hệ thống.

Vương Thần, Chủ tịch Phòng Thông tin Internet Trung Quốc, gần đây nói rằng, microblog nên được dùng để ‘phục vụ’ xã hội thay vì đe dọa sự an toàn của xã hội.

Chu Vĩnh Khang, một đảng viên thuộc Ủy Ban Chấp hành Trung ương Đảng, có nhắc đến một cuộc họp tương tự sau phiên họp đảng một tuần sau đó.

Nhưng đóng lại, hay hạn chế một công cụ xã hội vốn thu thập được rất nhiều đệ tử, không phải là điều đơn giản, ngay cả đối với một tổ chức hoàn toàn chỉ dành cho việc kiểm soát như đảng Cộng sản.

Như con trai của nhà hoạt động Vương Lệ Hồng nói: “Blog giống như một chiếc điều hòa nhiệt độ: một khi đã dùng rồi, bạn chẳng còn biết làm thế nào sống sót được mà thiếu nó.”
BBC News

VN sẽ nhận 16 chiếc Sukhoi nội trong năm nay

Saturday, November 5th, 2011

Báo Việt Nam loan tải thông tin nói công ty sản xuất vũ khí của Nga sẽ hoàn tất hợp đồng cung cấp 20 chiến đấu cơ Sukhoi đời mới trước cuối năm 2011.

Báo Đất Việt dẫn nguồn tạp chí quốc phòng Kanwa chuyên các vấn đề an ninh Đông Á nói Việt Nam đã ký hợp đồng mua 8 chiếc Su-30MK2 năm 2009 và 12 chiếc năm 2010.

(Su-30MK2 là loại chiến đấu cơ đời mới)

Cho tới giữa năm nay, đã có 4 chiếc Su-30MK2 được giao hàng.

Theo Kanwa, công ty sản xuất máy bay Sukhoi nói sẽ chuyển giao cho Việt Nam 16 chiếc còn lại ‘trước cuối năm 2011’.

Được biết, công ty chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng nảy là Rosoboronexport, nhà xuất khẩu vũ khí hàng đầu của Nga nhưng chiến đấu cơ được sản xuất tại nhà máy Komsomolsk-on-Amur, trực thuộc tập đoàn Sukhoi Holding.

Tổng giá trị của hai hợp đồng mua Su-30MK2 không được công bố, nhưng người ta ước tính lên tới một tỷ đôla.

Su-30MK2 là phiên bản nâng cấp của loại Su-27UB Flancker hai chỗ ngồi, có khả năng phóng tên lửa chống tàu, tiêu diệt mục tiêu mặt nước và mặt đất.

Tạp chí Kanwa cũng cho hay rằng theo yêu cầu của Bộ Quốc phòng Việt Nam, các máy bay Su-30MK2 mới sẽ có một số thay đổi, “trong đó hệ thống chiến đấu của máy bay Su-30MK2 tương tự như hệ thống chiến đấu được lắp trên máy bay Su-30MKM”.

Việt Nam được nói đang cân nhắc việc cùng Nga mở trung tâm bảo dưỡng chiến đấu cơ Sukhoi ở trong nước.

Đông Nam Á là thị trường tiềm năng của các loại chiến đấu cơ Sukhoi, mà các nước này đánh giá là hiện đại, dễ vận hành và lại rẻ hơn so với sản phẩm Âu Mỹ cùng loại.

Malaysia đã mua 18 chiếc Su-30 của Nga và đang cân nhắc mua thêm chừng ấy chiến đấu cơ nữa trong tương lai.

Mới đây Việt Nam còn mua 2 hệ thống phòng thủ tên lửa Bastion cũng của Nga.

Bộ Quốc phòng Việt Nam nói việc nâng cấp quân đội là phù hợp với tiềm lực kinh tế ngày càng lớn của Việt Nam.

Ngân sách Quốc phòng năm 2011 được nói tăng lên tới 2,6 tỷ đôla.

BBC News

Chế Linh bị hủy diễn ở Việt Nam

Saturday, November 5th, 2011

Liveshow của ca sỹ hải ngoại Chế Linh ở Hà Nội vừa bị rút giấy phép do chương trình có những ca khúc chưa được phép ở Việt Nam.

Chế Linh và các ca sỹ hải ngoại khác được khán giả HN đón nhận nồng nhiệt
Buổi liveshow này theo dự kiến sẽ được diễn ra ở Trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình vào ngày 12/11 tới.
Trước đó, Chế Linh đã có một đêm diễn được đánh giá là rất thành công vào ngày 21/10 cũng tại Trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình và một đêm ở nhà hát Trưng Vương, Đà Nẵng, vào ngày 29/10.

Liveshow ngày 12/11 ở Hà Nội được lên kế hoạch sau khi đêm diễn đầu tiên của Chế Linh tại Hà Nội được khán giả đón nhận nồng nhiệt.

Theo chương trình lưu diễn Việt Nam thì ngoài lần trở lại Hà Nội vào ngày 12/11, Chế Linh sẽ đến Hải Phòng vào ngày 5/11 và TP Hồ Chí Minh vào ngày 19/11.

Như vậy với quyết định của ngành văn hóa Hà Nội hôm thứ Hai ngày 1/11, Chế Linh có nguy cơ không thể tiếp tục biểu diễn ở Việt Nam như kế hoạch.
Rắc rối chữ nghĩa

Theo ông Phạm Quang Long, giám đốc Sở văn hóa, thể thao và du lịch Hà Nội, đơn vị ra quyết định rút giấy phép, thì trong 35 bài hát biểu diễn trong chương trình thì có đến 11 bài hát chưa được Việt Nam cho phép phổ biến.

Chính vì vậy Sở văn hóa Hà Nội không chấp nhận cho trình diễn những bài hát này.

Theo ông Long thì 11 bài hát này không nằm trong danh sách trình Sở để xin giấy phép biểu diễn.

Một lý do nữa mà Sở Văn hóa Hà Nội đưa ra cho việc rút giấy phép là tên chương trình không giống như đã đăng ký tại Sở.

Theo đó thì Sở cấp giấy phép cho chương trình có tên là ‘Liveshow ca sỹ Chế Linh’ chứ không phải là ‘Chế Linh 30 năm tái ngộ’.

Bên cạnh đó, thì Sở Văn hóa Hà Nội cũng không đồng ý với chữ ‘hải ngoại’ trong cụm từ ‘giọng ca vàng hải ngoại’ xuất hiện trong băng rôn quảng cáo.

Tuy nhiên, lý do chính thức mà Sở Văn hóa Hà Nội đưa ra là nhà tổ chức chương trình đã treo quảng cáo ‘gây phản cảm, mất mỹ quan đường phố’.

Do đó, Sở Văn hóa Hà Nội đã ra quyết định xử phạt việc treo các băng rôn trên các đường phố của Hà Nội và yêu cầu nhà tổ chức tháo dỡ toàn bộ các băng rôn này.

Đồng thời, Công ty giải trí Bích Ngọc, đơn vị tổ chức liveshow của Chế Linh, cũng tạm thời bị cấm tiếp tục tổ chức các chương trình trên địa bàn Hà Nội.

Chế Linh là một trong những ca sỹ nổi tiếng nhất của dòng nhạc vàng dưới thời Việt Nam Cộng hòa ở miền nam trước đây. Hiện nay ông đã sắp bước tuổi 70.

Sau ngày miền nam sụp đổ, ông bị bắt và kết tội ‘phản động’ vào năm 1976 và bị giam cầm hơn hai năm.

Sau đó, ông đã tìm cách vượt biên thành công sang Malaysia vào năm 1980.

Kể từ khi định cư ở Toronto, Canada, Chế Linh đã góp mặt thường xuyên trong các hoạt động văn nghệ hải ngoại và tham gia trong các chương trình nhạc hội của các hãng Thúy Nga và Asia.

Đây là lần biểu diễn chính thức đầu tiên của Chế Linh trước khán giả trong nước sau hơn 30 năm.

Liveshow lần này của ông quy tụ dàn ca sỹ quen thuộc tại hải ngoại như Hương Lan, Sơn Tuyền, Tuấn Ngọc, Thái Châu, Đức Huy, Mạnh Đình cùng với ba người con trai của ông vốn cũng theo nghiệp ca hát.

Dẫn chương trình là Nguyễn Cao Kỳ Duyên, MC kỳ cựu của hãng đĩa Thúy Nga.

Giá vé chương trình trong khoảng từ 500.000 cho đến 3 triệu đồng một vé.

Sở Văn hóa Hà Nội không đồng ý với nội dung và cách treo các băng rôn quảng cáo liveshow của Chế Linh
Đón nhận nồng nhiệt
Trao đổi với BBC, ca sỹ Hương Lan cho biết là chỉ nghe tin đồn từ tối hôm thứ Hai 31/10 nhưng chưa nhận được thông tin chính thức từ phía nhà tổ chức là sẽ hủy sô và chị vẫn biểu diễn như kế hoạch tại Hải Phòng vào ngày 5/11 tới.

Chị cũng không tin là đêm diễn sắp tới ở Hà Nội sẽ bị hủy vì ‘ở Việt Nam thì nếu bị rút giấy phép ở Hà Nội thì sẽ không được biểu diễn trên toàn Việt Nam’.

Hương Lan cho biết là trong đêm diễn ngày 21/10 ở Hà Nội, Trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình với sức chứa 4.000 chỗ ngồi đã không còn chỗ trống.

“Khán giả phần lớn là trung niên, và họ đều rất vui được gặp Chế Linh sau 30 năm,” Hương Lan nói.

Đêm diễn đầu tiên của Chế Linh ở Hà Nội được báo chí trong nước rất ca ngợi.

Một độc giả có tên Đỗ Văn Phong bình luận trên báo mạng VnExpress rằng đêm diễn của Chế Linh gợi cho anh ‘kỷ niệm về thời thơ ấu’.

Còn một độc giả khác có tên Xuân Chiến thì cho rằng ‘thật tuyệt vời khi nghe Chế Linh ca lại những ca khúc bất hủ’.

Một độc giả có tên Hạnh Ngân cám ơn Chế Linh đã ‘làm sống lại ký ức một thời để nhớ’.

Trong đêm diễn này, Chế Linh đã đơn ca và hợp ca cùng các ca sỹ khác trong các bài hát như Mai lỡ mình xa nhau, Con đường xưa em đi, Thành phố buồn, Linh hồn tượng đá, Mười năm tình cũ, Xin yêu tôi bằng cả tình người, Nụ cười chua cay…

Chế Linh là ca sỹ mới nhất trong làn sóng về nước biểu diễn của các thuộc thế hệ nhạc vàng ở miền nam hiện đang định cư ở hải ngoại.

Chính quyền Việt Nam lâu nay kêu gọi hòa hợp, hòa giải dân tộc với những người ở phía bên kia chiến tuyến và những người đã bỏ chạy chế độ cộng sản.

Trong năm 2010 thì các ca sỹ Trường Vũ, Tuấn Vũ và Thanh Tuyền cũng lần đầu tiên về nước biểu diễn ở Hà Nội và các đêm diễn này đều rất thành công.

Sau chiến thắng năm 1975, nhà cầm quyền Việt Nam thực thi chính sách cấm đoán nhạc vàng mà họ cho là ‘phản động’ và phổ biến nhạc đỏ, tức là nhạc mang tính chất tuyên truyền, ca ngợi lý tưởng, với hy vọng nhạc đỏ sẽ bóp chết nhạc vàng.

Tuy nhiên, những bài hát phần lớn được sáng tác ở miền nam vàp trước năm 1975 này hiện đang được rất được ưa thích ở Hà Nội và có thể dễ dàng tìm thấy ở các tiệm băng đĩa ở đây.
BBC News- London

Bài toán từ quốc gia Iran

Thursday, November 3rd, 2011

Bài thi học sinh giỏi toán Iran năm 1993:

Trong hình dưới đây, diện tích của các tam giác AOD, DOC và AOB được cho biết. Tìm diện tích của tam giác OEF dựa theo diện tích của những tam giác đã được biết. (Dành cho học sinh Thuận An tại Việt Nam).

http://www.artofproblemsolving.com/Forum/viewtopic.php?p=2378561&sid=258ee391a2ebf123ba8b3573e68613c2#p2378561

Solution

Let (Ω) denote the area of shape Ω, I = OE ∩ DC, J = OF ∩ BC, a = (AOD), b = (DOC), c = (AOB) which are the three areas given by the problem, d = (COJ), e = (BOJ), f = (IDE), g = (ICE), h = (CJF), i = (BJF).

We have OAOC = ab = c(d + e), or d + e = bca (i)
Now note that (EBO)(EDO) = g + (ICO) + bcaf + (IDO) = ca , or
ag + bc + (ICO)a = c(f + (IDO)) (ii)

(EDC)(BDC) = (EAC)(BAC), or f + gb + bca = f + g + a + bc + bca, or
f + g = b(a + b)(a + c)a(c – b) (iii)
gf = (ICO)(IDO) (iv)
and (IDO) + (ICO) = b (v)

Solve four equations (ii), (iii), (iv) and (v) with four unknowns f, g, (ICO) and (IDO). By substituting (ICO) = b – (IDO) into (iv) and (ii) we get
gf = b(IDO) – 1 or (IDO) = bff + g and
ag + ab + bc – (IDO)a = c(f + (IDO)), or

(f + g)(ab + ag + bc – cf) = bf(a + c) (vi)

Now substitute f + g from (iii) into equation (vi) to get
(a + b)(ab + ag + bc) = f(bc + 2ac – ab) (vii)
and by substituting g = b(a + b)(a + c)a(c – b) – f into equation (vii)
f = b(a + b)(a + c)²(c – b)(a² + bc + 2ac) and g = bc(a + b)²(a + c)a(c – b)(a² + bc + 2ac).

fg = a(a + c)c(a + b) . Therefore,
(ICO) = b – bff + g = bfg + 1 = bc(a + b)a² + 2ac + bc.
g(ICO) = (a + b)(a + c)a(c – b) .

We also have d + h + ba = i + ec = d + e + h + i + b a + c (viii)
h + ib + d + e = h + i + d + e + ca + b (ix)

Substitute d + e = bca from (i) into (viii) and simplify to get
a(h + i)ab + bc = a(h + i + c) + bca(a + b), or a²(h+ i)(a + b) = ab(h+ i)(a + c) +
bc(a + b)(a + c), or h+ i = bc(a + b)(a + c)a(a² – bc).

On the other hand, substituting the values of d + e and h + i into equation (viii) gives d+ h = bc(a + b)a² – bc.

Lastly, we also have (IFO)(ICO) = (IFE)g = (IFO) + (IFE)(ICO) + g = (OEF)(ICO) + g,

but (IFO) = (ICO) + d + h, and the area of triangle OEF in terms of areas of these three triangles is
(OEF) = [(ICO) + g]×[(ICO) + d + h]/(ICO) = [1 + g(ICO)]×[(ICO) + d + h] = [1 + (a + b)(a + c)a(c – b)]×bc(a + b)[1a² + 2ac + bc + 1a² – bc].

Finally (OEF) = 2bc(a + b)(a + c)(c – b)(a² – bc).